ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tại làng nghề mây tre đan Phú Nghĩa (huyện Chương Mỹ). Ảnh: Linh Ngọc

Không còn là những tạo hình đơn giản, thô sơ, các sản phẩm TCMN của làng nghề Việt Nam ngày càng được quan tâm hơn về các vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội. Trong đó đặc biệt là các vấn đề liên quan đến nguồn gốc và tính hợp pháp của nguyên liệu sử dụng, các vấn đề liên quan đến an toàn và sức khỏe, sản xuất sạch – thân thiện với môi trường… Điều này khiến dư địa phát triển cho ngành hàng này hiện nay là rất lớn. Do đó, để nắm bắt cơ hội thị trường, các cơ sở, doanh nghiệp làng nghề cần trang bị những nền tảng cơ bản theo yêu cầu thị trường, trong đó có truy xuất nguồn gốc. Trong bối cảnh của dịch COVID-19, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng TCMN những năm qua luôn trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và ngành thủ công mỹ nghệ có vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành nghề thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.

Với tâm huyết và sáng tạo của mình, bà Nguyễn Thị Lương, Giám đốc Công ty TNHH Mây tre đan xuất khẩu Hiền Lương (xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) đã biến những sản phẩm truyền thống của Việt Nam trở thành hàng xuất khẩu có giá trị, phù hợp xu hướng tiêu dùng xanh trên thế giới. Cơ sở sản xuất sản phẩm TCMN kết hợp cỏ tế (guột) với các nguyên liệu như cói, bẹ ngô, mây, tre, giang… của bà Nguyễn Thị Lương, bình quân mỗi năm xuất khẩu trên 100.000 sản phẩm, trị giá 17 – 18 tỷ đồng đi các thị trường như Rumani, Hungary, Mỹ, Nga… Ngoài ra các sản phẩm của công ty nhiều năm liền được bình chọn là “Hàng Việt Nam được người tiêu dùng yêu thích”. Đặc biệt, 3 sản phẩm dùng để cắm hoa, trang trí là làn hoa tuyết xách tay; chao đèn; bộ gốm đan bọc guột, mây mới được UBND thành phố Hà Nội cấp chứng nhận sản phẩm Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP). Năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 nhưng giá trị xuất khẩu đạt trên 10 tỷ đồng, thời điểm năm 2021 công ty của bà Lương cũng đã ký hợp đồng với khách hàng tại Mỹ, Nga đến giữa năm.

Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm của Công ty TNHH Mây tre đan xuất khẩu Hiền Lương như bát gà, thùng sắt bèo tây đã được tôn vinh sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp thành phố Hà Nội và khu vực phía Bắc.

Tương tự, là một trong số ít cơ sở sản xuất ký hợp đồng chế tác đồ trang sức với thương hiệu nổi tiếng Hermes (Pháp), cơ sở của ông Vũ Thanh Liêm, Giám đốc Công ty TNHH sản xuất và thương mại Hahanco (Thụy Ứng, huyện Thường Tín, Hà Nội), thực hiện nhiều sản phẩm như vòng tay, vòng cổ, hoa tai… được trau chuốt, kiểu dáng sang trọng, màu sắc nhã nhặn và bắt mắt theo thiết kế của Hermes đẹp đến mức nếu không nói ra thì mọi người sẽ nghĩ là hàng nhập khẩu từ nước ngoài về chứ không phải xuất phát từ ngôi làng ven đô Hà Nội.

Ông Vũ Thanh Liêm cho biết, những chiếc lược sừng với kiểu dáng bình thường nhưng làm theo thiết kế của khách hàng Nhật Bản sẽ cho ra một sản phẩm tinh tế, mềm mại hơn. Đồng thời, giá thành của những sản phẩm này khi đưa vào thị trường nước ngoài cũng cao hơn rất nhiều so với bán trong nước.

Dù không phải là ngành hàng thiết yếu nhưng trong một xã hội phát triển, nhu cầu hàng trang trí bằng các sản phẩm TCMN đóng vai trò ngày càng cao khiến dư địa phát triển cho ngành hàng này hiện nay là rất lớn. Do đó, để nắm bắt cơ hội thị trường, các cơ sở, doanh nghiệp làng nghề cần trang bị những nền tảng cơ bản theo yêu cầu thị trường, trong đó có truy xuất nguồn gốc. Trong bối cảnh của dịch COVID-19, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng TCMN vẫn duy trì mức tăng trưởng khá.

Ông Lưu Duy Dần – Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam – nhận định, Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu hàng TCMN và nông sản, có những sản phẩm tốt và những nhà sản xuất có trách nhiệm, nhất là những cơ hội lớn đang được mở ra từ các Hiệp định Thương mại tự do như EVFTA đối với ngành TCMN hiện nay.

Theo thống kê của Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ mang lại lợi nhuận gấp 5-10 lần so với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 đến 5 ngàn lao động, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào nhóm sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn và có tỉ suất lợi nhuận cao. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại giá trị gia tăng lớn và được coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất khẩu trong các năm tới.

Thêm vào đó, người tiêu dùng cũng ngày càng quan tâm hơn về các vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội, trong đó đặc biệt là các vấn đề liên quan đến nguồn gốc và tính hợp pháp của nguyên liệu sử dụng, các vấn đề liên quan đến an toàn và sức khỏe, sản xuất sạch – thân thiện với môi trường… Các sản phẩm TCMN sử dụng nguyên liệu tận dụng và tái chế và kênh thị trường thương mại bình đẳng dự báo sẽ ngày càng được phát triển. Những điều này là lợi thế nhưng cũng là những thách thức lớn đối với các làng nghề truyền thống của Việt Nam hiện nay khi hiện trạng sản xuất các làng nghề còn chưa tập trung, manh mún, nhỏ lẻ.

Để ngành hàng TCMN Việt Nam có thể mạnh mẽ vươn ra thế giới, ngành TCMN cần xác định dịnh hướng chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2021 – 2025 là nâng cao năng lực xuất khẩu chuỗi giá trị hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên cơ sở tập trung vào các nhóm mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, gia tăng giá trị sản phẩm, tăng cường hợp chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng được nhiều phân khúc thị trường khác nhau, trong đó tập trung vào phân khúc thị trường trung và cao cấp. Tăng cường tính gắn kết ngành và xây dựng thương hiệu ngành gắn với xúc tiến thương mại, phát triển bền vững nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên bình diện khu vực – phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD vào năm 2025./.